Ung thư vú là dạng ung thư phổ biến nhất ảnh hưởng đến phụ nữ. Tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng, với khoảng 2 triệu ca mắc mới trên toàn thế giới mỗi năm.
Riêng tại Hoa Kỳ, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) dự đoán rằng 13% phụ nữ sẽ phát triển ung thư vú trong cuộc đời của họ.
Viện Ung thư Quốc gia (NCI) ước tính rằng khoảng 276.480 phụ nữ sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú vào năm 2020 và khoảng 42.170 người sẽ chết vì căn bệnh này.
ACS cũng dự đoán rằng khoảng 2.620 nam giới sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú vào năm 2020 và khoảng 520 người sẽ tử vong vì căn bệnh này.
Có một sự gia tăng nhỏ về tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú từ năm 2007 đến năm 2016, khi nó tăng 0,3% mỗi năm.
Nhờ phát hiện sớm hơn và cải thiện điều trị, tử vong do ung thư vú đã giảm 40% từ năm 1989 đến năm 2017, theo ACS.
Trong khi tỷ lệ tử vong do ung thư vú vẫn ổn định kể từ năm 2007 đối với phụ nữ dưới 50 tuổi, tỷ lệ tử vong ở phụ nữ lớn tuổi giảm 1,3% mỗi năm từ năm 2013 đến năm 2017.
Tỷ lệ sống sót theo giai đoạn ung thư vú
Các giai đoạn của ung thư vú liên quan đến mức độ phát triển của ung thư và mức độ lây lan của nó. Nói chung, ung thư vú được chẩn đoán và điều trị càng sớm thì cơ hội sống lâu dài càng cao.
- Giai đoạn 0. Đây là giai đoạn tiền ung thư không có tế bào ung thư xâm lấn.
- Giai đoạn 1 (bản địa hóa). Khối u nhỏ và khu trú ở vú. Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO) báo cáo rằng 62 phần trăm phụ nữ được chẩn đoán ở giai đoạn 1.
- Giai đoạn 2 (bản địa hóa). Khối u lớn hơn 2 cm hoặc đã lan đến các hạch bạch huyết dưới cánh tay.
- Giai đoạn 3 (khu vực). Giai đoạn này bao gồm ung thư đã lan đến da, thành ngực hoặc nhiều hạch bạch huyết trong hoặc gần vú.
- Giai đoạn 4 (xa). Đây là bệnh ung thư vú di căn, có nghĩa là nó di căn đến một hoặc nhiều bộ phận xa của cơ thể, phổ biến nhất là đến xương, phổi hoặc gan.
Các giai đoạn dựa trên các yếu tố sau:
- kích thước khối u
- Liệu các hạch bạch huyết ở vùng dưới cánh tay có bị ung thư không
- liệu ung thư đã di căn hay chưa, nghĩa là nó đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể
Kể từ năm 2018, các yếu tố sau cũng đã được sử dụng để xác định giai đoạn ung thư vú:
- liệu các tế bào ung thư có các thụ thể hormone và cần estrogen hoặc progesterone để phát triển hay không
- liệu các tế bào ung thư có protein HER2 (thụ thể 2 của yếu tố tăng trưởng biểu bì ở người) giúp chúng phát triển không
- "cấp độ" khối u, nghĩa là các tế bào trông hung hãn như thế nào dưới kính hiển vi
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm, 10 năm, 30 năm
Tỷ lệ sống sót sau khi bị ung thư vú so sánh số phụ nữ bị ung thư vú với số phụ nữ trong dân số tổng thể để ước tính khoảng thời gian phụ nữ bị ung thư vú có khả năng sống sau khi họ được chẩn đoán.
Ví dụ: nếu tỷ lệ sống sót cho một giai đoạn ung thư vú trong khoảng thời gian 5 năm là 90%, điều đó có nghĩa là những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư đó có khả năng sống sót trong 5 năm cao hơn 90% so với những phụ nữ không mắc ung thư.
Tỷ lệ sống sót dựa trên thông tin từ cơ sở dữ liệu Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả Cuối cùng (SEER) mà NCI duy trì.
SEER không nhóm ung thư vú theo các giai đoạn từ 0 đến 4. Nó nhóm chúng theo các giai đoạn sau:
- khu trú: khi ung thư chưa lan ra ngoài vú
- khu vực: khi nó lan ra bên ngoài vú đến các hạch bạch huyết gần đó
- xa: khi nó lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như gan, phổi hoặc xương
NCI báo cáo rằng 90% phụ nữ bị ung thư vú sống sót sau 5 năm sau khi chẩn đoán. Tỷ lệ sống sót này bao gồm tất cả phụ nữ bị ung thư vú, bất kể giai đoạn nào.
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú khu trú là khoảng 99 phần trăm.
Đối với những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú khu vực, con số này giảm xuống khoảng 86%. Những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở xa có khoảng 28% khả năng sống sót trong 5 năm.
Một nghiên cứu năm 2017 của NCI cho thấy từ năm 1992–1994 và 2005–2012, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở giai đoạn xa đã tăng gấp đôi, từ 18% lên 36%.
Tỷ lệ sống sót sau 10 năm
ACS báo cáo rằng tỷ lệ sống trung bình 10 năm của phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú là 84%.
Một nghiên cứu khác trên 4.200 phụ nữ trẻ mắc bệnh ung thư vú cho thấy tỷ lệ sống sót sau 10 năm của những phụ nữ có khối u nhỏ hơn 2 cm là 89%.
Đối với những người có khối u bằng 2 cm, tỷ lệ này là 86%, và đối với những người có khối u lớn hơn, tỷ lệ sống sót là 81%.
Tỷ lệ sống sót trong 30 năm
Tỷ lệ trung bình đối với phụ nữ sống sót ít nhất 15 năm sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú là 80%. Không có thống kê về tỷ lệ sống sót theo giai đoạn ung thư.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn 1 có tỷ lệ sống sót sau 30 năm cao hơn những người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn 2, 3 hoặc 4. Mỗi giai đoạn tiên tiến có tỷ lệ sống sót thấp hơn các giai đoạn trước đó.
Điều này đúng bất kể phụ nữ đã phẫu thuật, phẫu thuật bằng xạ trị hay kết hợp các phương pháp điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị và liệu pháp nội tiết.
Tỷ lệ sống sót theo độ tuổi
Nguy cơ phát triển ung thư vú của bạn tăng lên khi bạn già đi. NCI báo cáo rằng trong số những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở Hoa Kỳ từ năm 2013 đến năm 2017, ít hơn 2% trong số họ dưới 35 tuổi.
Độ tuổi trung bình mà phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú là 62 tuổi.
Nguồn hình ảnh: Viện Ung thư Quốc gia / seer.cancer.gov/csr/1975_2013/browse_csr.phpTỷ lệ sống sót theo chủng tộc
Phụ nữ da trắng ở Hoa Kỳ có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Từ năm 2013 đến năm 2017, 131,3 trên 100.000 phụ nữ da trắng được chẩn đoán mắc bệnh.
Tuy nhiên, có sự khác biệt trong nhóm đó: phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha có nhiều khả năng được chẩn đoán hơn phụ nữ da trắng gốc Tây Ban Nha.
Nguồn hình ảnh: Viện Ung thư Quốc gia / seer.cancer.gov/statfacts/html/breast.htmlPhụ nữ da đen là nhóm có nguy cơ mắc ung thư vú cao thứ hai (124,8 trên 100.000 phụ nữ), tiếp theo là phụ nữ Châu Á và Đảo Thái Bình Dương (102,9), gốc Tây Ban Nha (99,1), và phụ nữ thổ dân da đỏ Mỹ và Alaska (79,5).
Tỷ lệ sống sót cũng thay đổi tùy theo chủng tộc và dân tộc.
Từ năm 2013 đến năm 2017, phụ nữ Châu Á và Đảo Thái Bình Dương có tỷ lệ tử vong thấp nhất, là 11,4 trên 100.000 phụ nữ. Tiếp theo là phụ nữ gốc Tây Ban Nha (14,0), phụ nữ da đỏ Mỹ và thổ dân Alaska (14,6), phụ nữ da trắng (19,8) và phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha (21,0).
Phụ nữ da đen có tỷ lệ tử vong cao nhất, 27,6 trên 100.000 phụ nữ, mặc dù là nhóm có nguy cơ mắc ung thư vú cao thứ hai.
Điều này có thể là do không được chăm sóc. Các yếu tố kinh tế xã hội dường như ảnh hưởng đến sự chênh lệch về tỷ lệ tử vong do ung thư vú. Bao gồm các:
- nghèo nàn
- văn hóa
- bất công xã hội
Một nghiên cứu năm 2018 cho thấy phụ nữ da đen có thể gặp nhiều khó khăn hơn phụ nữ da trắng chịu đựng và điều trị nội tiết để giúp tăng tỷ lệ sống sót của họ.
Để giúp giảm sự chênh lệch chủng tộc này trong ung thư vú, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) báo cáo rằng các cơ quan y tế công cộng đang cố gắng đảm bảo rằng tất cả phụ nữ đều có thể được sàng lọc và điều trị.
Các yếu tố ảnh hưởng đến triển vọng
Yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng sống sót của bệnh ung thư vú là ung thư đã di căn, hoặc di căn sang các cơ quan khác của cơ thể hay chưa. Chẩn đoán càng sớm, cơ hội điều trị ung thư vú trước khi nó tiến triển càng lớn.
Một số loại ung thư vú mạnh hơn những loại khác. Tỷ lệ sống sót sau năm năm có xu hướng thấp hơn đối với những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú âm tính (TNBC).
TNBC có nhiều khả năng lây lan và tái phát, đặc biệt là trong 3 đến 5 năm đầu. Sau 5 năm, nguy cơ đó có thể thấp hơn so với các dạng phụ khác của ung thư vú.
Phụ nữ da đen có nhiều khả năng mắc loại ung thư vú hung hãn hơn này.
Một nghiên cứu năm 2019 cho thấy tỷ lệ TNBC từ năm 2010 đến năm 2015 là cao nhất đối với phụ nữ da đen sinh ra ở Hoa Kỳ và Tây Phi, tiếp theo là phụ nữ da đen sinh ra ở Caribê và phụ nữ da đen sinh ra ở Đông Phi.
Cải thiện triển vọng
Tầm soát ung thư vú thường xuyên có thể giúp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm nhất. Hầu hết các tổ chức đều khuyến nghị tầm soát bằng chụp X-quang tuyến vú hàng năm bắt đầu từ khoảng 45 tuổi.
ACS cũng khuyến cáo rằng những phụ nữ có tiền sử gia đình hoặc có khuynh hướng di truyền phát triển ung thư vú nên chụp MRI hàng năm bên cạnh chụp quang tuyến vú.
Nếu bạn đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, hãy nhớ rằng tỷ lệ sống sót chỉ là số liệu thống kê chung. Chúng có thể không phản ánh thực tế rằng các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư vú luôn được cải thiện.
Và mọi người đều khác nhau. Triển vọng cá nhân của bạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vì vậy hãy nói chuyện với bác sĩ về triển vọng của bạn để hiểu rõ hơn về những gì có thể xảy ra.